Các nghiên cứu gần đây về dinh dưỡng đường tiêu hóa sớm ở bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày được mô tả. Bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo.
1. Các phương pháp, cách tiếp cận và thời điểm nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa
1.1 dinh dưỡng qua đường tiêu hóa
Có ba phương pháp truyền dịch có thể được sử dụng để hỗ trợ dinh dưỡng cho bệnh nhân ung thư dạ dày sau phẫu thuật: truyền một lần, bơm liên tục qua bơm truyền và truyền nhỏ giọt trọng lực ngắt quãng. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của truyền liên tục bằng bơm truyền tốt hơn đáng kể so với truyền nhỏ giọt trọng lực ngắt quãng, và ít gây ra phản ứng bất lợi trên đường tiêu hóa. Trước khi hỗ trợ dinh dưỡng, 50ml dung dịch tiêm glucose natri clorid 5% thường được sử dụng để rửa dạ dày. Vào mùa đông, hãy dùng túi nước nóng hoặc máy sưởi điện và đặt ở một đầu ống truyền gần lỗ ống thông để làm nóng, hoặc làm nóng ống truyền bằng bình thủy điện chứa đầy nước nóng. Nhiệt độ dung dịch dinh dưỡng thường là 37℃~ 40℃. Sau khi mởTúi dinh dưỡng đường ruột, nên sử dụng ngay. Dung dịch dinh dưỡng là 500ml/chai, thời gian truyền dịch huyền phù nên duy trì khoảng 4 giờ. Tốc độ nhỏ giọt là 20 giọt/phút 30 phút trước khi bắt đầu truyền. Sau khi hết khó chịu, điều chỉnh tốc độ nhỏ giọt lên 40-50 giọt/phút. Sau khi truyền, rửa ống bằng 50ml dung dịch tiêm glucose natri clorid 5%. Nếu tạm thời không cần truyền, dung dịch dinh dưỡng nên được bảo quản trong môi trường bảo quản lạnh ở nhiệt độ 2°C.℃~ 10℃và thời gian bảo quản lạnh không quá 24h.
1.2 Đường dinh dưỡng qua đường tiêu hóa
Dinh dưỡng đường ruột chủ yếu bao gồmỐng thông mũi dạ dày, ống thông dạ dày hỗng tràng, ống thông mũi tá tràng, ống thông mũi ruột xoắn vàỐng thông mũi hỗng tràng. Trong trường hợp cư trú lâu dài củaỐng thông dạ dày, có khả năng cao gây ra một loạt các biến chứng như tắc môn vị, chảy máu, viêm niêm mạc dạ dày mạn tính, loét và xói mòn. Ống thông mũi-ruột xoắn có kết cấu mềm, không dễ kích thích khoang mũi và họng của bệnh nhân, dễ uốn cong và khả năng chịu đựng của bệnh nhân tốt nên có thể đặt trong thời gian dài. Tuy nhiên, thời gian đặt ống thông qua mũi kéo dài thường sẽ gây khó chịu cho bệnh nhân, tăng khả năng trào ngược dịch dinh dưỡng và có thể xảy ra tình trạng rối loạn chức năng sinh dục. Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân trải qua phẫu thuật giảm nhẹ ung thư dạ dày kém, vì vậy họ cần hỗ trợ dinh dưỡng lâu dài, nhưng việc làm rỗng dạ dày của bệnh nhân bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Do đó, không nên chọn đặt ống thông qua đường mũi và đặt lỗ rò trong khi phẫu thuật là lựa chọn hợp lý hơn. Zhang Moucheng và những người khác đã báo cáo rằng ống thông dạ dày hỗng tràng đã được sử dụng, một lỗ nhỏ được tạo ra qua thành dạ dày của bệnh nhân, một ống mỏng (có đường kính 3mm) được đưa qua lỗ nhỏ và đi vào hỗng tràng qua môn vị và tá tràng. Phương pháp khâu túi đôi được sử dụng để xử lý vết rạch trên thành dạ dày và ống thông được cố định trong đường hầm thành dạ dày. Phương pháp này phù hợp hơn cho những bệnh nhân giảm nhẹ. Ống thông dạ dày hỗng tràng có những ưu điểm sau: thời gian lưu trú lâu hơn các phương pháp cấy ghép khác, có thể tránh hiệu quả nhiễm trùng đường hô hấp và phổi do ống thông dạ dày qua mũi gây ra; Khâu và cố định qua ống thông thành dạ dày đơn giản hơn và khả năng hẹp dạ dày và rò dạ dày thấp hơn; Vị trí của thành dạ dày tương đối cao, do đó tránh được một số lượng lớn dịch báng do di căn gan sau phẫu thuật ung thư dạ dày, ống thông thấm và giảm tỷ lệ rò ruột và nhiễm trùng ổ bụng; Ít hiện tượng trào ngược, bệnh nhân không dễ tạo ra gánh nặng tâm lý.
1.3 Thời điểm nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa và lựa chọn dung dịch dinh dưỡng
Theo báo cáo của các học giả trong nước, bệnh nhân phẫu thuật cắt dạ dày toàn bộ do ung thư dạ dày bắt đầu nuôi dưỡng qua ống thông hỗng tràng từ 6 đến 8 giờ sau phẫu thuật, tiêm 50ml dung dịch glucose 5% ấm mỗi 2 giờ, hoặc tiêm nhũ tương dinh dưỡng qua ống thông hỗng tràng với tốc độ đồng đều. Nếu bệnh nhân không có triệu chứng khó chịu như đau bụng và chướng bụng, hãy tăng dần liều lượng, và bổ sung lượng dịch thiếu qua đường tĩnh mạch. Sau khi bệnh nhân đi ngoài trở lại, có thể rút ống thông dạ dày và ăn thức ăn lỏng qua đường miệng. Sau khi bệnh nhân có thể nuốt hết lượng dịch qua đường miệng,Ống thông dạ dày có thể được loại bỏ. Những người trong ngành tin rằng nước uống được cung cấp 48 giờ sau khi phẫu thuật ung thư dạ dày. Vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, có thể ăn chất lỏng trong suốt vào bữa tối, có thể ăn chất lỏng đầy đủ vào bữa trưa vào ngày thứ ba và có thể ăn thức ăn mềm vào bữa sáng vào ngày thứ tư. Do đó, hiện tại, không có tiêu chuẩn thống nhất về thời gian và loại hình nuôi dưỡng sớm sau phẫu thuật ung thư dạ dày. Tuy nhiên, kết quả cho thấy việc áp dụng khái niệm phục hồi chức năng nhanh và hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa sớm không làm tăng tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật, điều này có lợi hơn cho việc phục hồi chức năng đường tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng hiệu quả ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật cắt dạ dày triệt để, cải thiện chức năng miễn dịch của bệnh nhân và thúc đẩy quá trình phục hồi nhanh chóng của bệnh nhân.
2. Điều dưỡng dinh dưỡng đường tiêu hóa sớm
2.1 điều dưỡng tâm lý
Điều dưỡng tâm lý là một mắt xích rất quan trọng sau phẫu thuật ung thư dạ dày. Trước tiên, nhân viên y tế cần giới thiệu cho bệnh nhân từng ưu điểm của nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa, thông báo cho họ về lợi ích của việc điều trị bệnh ban đầu, đồng thời giới thiệu các trường hợp thành công và kinh nghiệm điều trị cho bệnh nhân để giúp họ tự tin và cải thiện tuân thủ điều trị. Thứ hai, cần cung cấp cho bệnh nhân thông tin về các loại hình nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa, các biến chứng có thể xảy ra và các phương pháp truyền dịch. Cần nhấn mạnh rằng chỉ có hỗ trợ nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa sớm mới có thể phục hồi khả năng ăn uống bằng đường miệng trong thời gian ngắn nhất và cuối cùng giúp bệnh phục hồi hoàn toàn.
2.2 Điều dưỡng qua ống thông dinh dưỡng
Đường ống truyền dịch dinh dưỡng phải được chăm sóc tốt và cố định đúng cách để tránh đường ống bị nén, uốn cong, xoắn hoặc trượt. Đối với ống dinh dưỡng đã được đặt và cố định đúng cách, điều dưỡng viên có thể đánh dấu vị trí ống đi qua da bằng bút đánh dấu màu đỏ, xử lý việc bàn giao ca, ghi lại thang đo của ống dinh dưỡng và quan sát và xác nhận xem ống có bị lệch hay vô tình tách ra không. Khi đưa thuốc qua ống nuôi, điều dưỡng viên phải thực hiện tốt công tác khử trùng và vệ sinh ống nuôi. Ống nuôi phải được vệ sinh kỹ lưỡng trước và sau khi dùng thuốc, và thuốc phải được nghiền nát và hòa tan hoàn toàn theo tỷ lệ đã định, để tránh tắc nghẽn đường ống do các mảnh thuốc quá lớn trộn lẫn trong dung dịch thuốc hoặc thuốc và dung dịch dinh dưỡng không đủ kết dính, dẫn đến hình thành cục máu đông và làm tắc đường ống. Sau khi truyền dung dịch dinh dưỡng, cần vệ sinh đường ống. Thông thường, có thể sử dụng 50ml dung dịch tiêm glucose natri clorid 5% để rửa, mỗi ngày một lần. Trong trạng thái truyền dịch liên tục, điều dưỡng viên nên vệ sinh đường ống bằng ống tiêm 50ml và xả nước 4 giờ một lần. Nếu cần tạm dừng truyền dịch trong quá trình truyền, điều dưỡng viên cũng nên xả nước ống thông kịp thời để tránh tình trạng đông đặc hoặc hư hỏng dung dịch dinh dưỡng sau thời gian dài đặt. Trong trường hợp báo động bơm truyền dịch trong quá trình truyền, trước tiên hãy tách ống dẫn dinh dưỡng và bơm, sau đó rửa sạch ống dẫn dinh dưỡng. Nếu ống dẫn dinh dưỡng không bị tắc nghẽn, hãy kiểm tra các nguyên nhân khác.
2.3 điều trị biến chứng
2.3.1 Biến chứng đường tiêu hóa
Các biến chứng thường gặp nhất của hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa là buồn nôn, nôn, tiêu chảy và đau bụng. Nguyên nhân của các biến chứng này liên quan chặt chẽ đến việc pha dung dịch dinh dưỡng bị ô nhiễm, nồng độ quá cao, truyền quá nhanh và nhiệt độ quá thấp. Điều dưỡng viên cần đặc biệt chú ý đến các yếu tố trên, thường xuyên tuần tra và kiểm tra 30 phút một lần để xác nhận nhiệt độ và tốc độ nhỏ giọt của dung dịch dinh dưỡng có bình thường không. Việc định hình và bảo quản dung dịch dinh dưỡng cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình vận hành vô trùng để tránh ô nhiễm dung dịch dinh dưỡng. Cần chú ý đến biểu hiện của bệnh nhân, xác nhận xem có kèm theo thay đổi âm thanh ruột hoặc chướng bụng không và quan sát tính chất của phân. Nếu có các triệu chứng khó chịu như tiêu chảy và chướng bụng, cần tạm dừng truyền dịch theo tình huống cụ thể hoặc giảm tốc độ truyền dịch cho phù hợp. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể phẫu thuật đặt ống thông dạ dày để tiêm thuốc kích thích nhu động ruột.
2.3.2 khát vọng
Trong số các biến chứng liên quan đến dinh dưỡng đường ruột, hít sặc là biến chứng nghiêm trọng nhất. Nguyên nhân chính là do dạ dày làm rỗng kém và trào ngược chất dinh dưỡng. Đối với những bệnh nhân này, điều dưỡng có thể giúp họ duy trì tư thế nửa ngồi nửa ngồi, hoặc nâng đầu giường lên 30 độ.° Để tránh trào ngược dung dịch dinh dưỡng, cần duy trì tư thế này trong vòng 30 phút sau khi truyền dung dịch dinh dưỡng. Trong trường hợp hít phải, điều dưỡng cần dừng truyền dịch kịp thời, giúp bệnh nhân nằm đúng tư thế, hạ thấp đầu, hướng dẫn bệnh nhân ho hiệu quả, kịp thời hút sạch dị vật trong đường thở và hút sạch dịch dạ dày của bệnh nhân để tránh trào ngược trở lại. Ngoài ra, cần tiêm kháng sinh đường tĩnh mạch để phòng ngừa và điều trị nhiễm trùng phổi.
2.3.3 chảy máu đường tiêu hóa
Khi bệnh nhân được truyền dịch dinh dưỡng qua đường tiêu hóa có dịch vị màu nâu hoặc phân đen, cần xem xét khả năng xuất huyết tiêu hóa. Điều dưỡng viên cần thông báo kịp thời cho bác sĩ và theo dõi chặt chẽ nhịp tim, huyết áp và các chỉ số khác của bệnh nhân. Đối với bệnh nhân xuất huyết ít, xét nghiệm dịch vị dương tính và có máu ẩn trong phân, có thể dùng thuốc ức chế axit để bảo vệ niêm mạc dạ dày, và tiếp tục nuôi dưỡng qua ống thông dạ dày trên cơ sở điều trị cầm máu. Lúc này, nhiệt độ của dịch thông dạ dày có thể giảm xuống 28 độ C.℃~ 30℃; Bệnh nhân chảy máu nhiều cần nhịn ăn ngay, tiêm tĩnh mạch thuốc kháng acid và thuốc cầm máu, bù dịch kịp thời, cho uống 50ml nước muối sinh lý pha với 2-4mg norepinephrin và bơm rửa mũi 4 giờ một lần, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình trạng bệnh.
2.3.4 tắc nghẽn cơ học
Nếu ống truyền dịch bị biến dạng, cong, tắc nghẽn hoặc trật khớp, cần điều chỉnh lại tư thế cơ thể và vị trí ống thông. Sau khi ống thông bị tắc, dùng ống tiêm rút một lượng dung dịch muối sinh lý thích hợp để rửa áp lực. Nếu việc rửa không hiệu quả, hãy lấy một viên chymotrypsin và trộn với 20ml dung dịch muối sinh lý để rửa, đồng thời thực hiện thao tác nhẹ nhàng. Nếu không có phương pháp nào ở trên hiệu quả, hãy quyết định có nên đặt lại ống thông hay không tùy theo tình huống cụ thể. Khi ống thông hỗng tràng bị tắc, có thể bơm sạch dịch bên trong bằng ống tiêm. Không luồn dây dẫn vào ống thông để tránh làm hỏng và vỡ ống thông.ống thông cho ăn.
2.3.5 Biến chứng chuyển hóa
Việc sử dụng hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa có thể gây rối loạn đường huyết, trong khi tình trạng tăng đường huyết của cơ thể sẽ dẫn đến sự sinh sản nhanh chóng của vi khuẩn. Đồng thời, rối loạn chuyển hóa glucose sẽ dẫn đến cung cấp năng lượng không đủ, dẫn đến suy giảm sức đề kháng của bệnh nhân, gây nhiễm trùng đường ruột, dẫn đến rối loạn chức năng tiêu hóa và cũng là nguyên nhân chính gây suy đa cơ quan. Cần lưu ý rằng hầu hết bệnh nhân ung thư dạ dày sau ghép gan đều kèm theo tình trạng kháng insulin. Đồng thời, họ được dùng hormone tăng trưởng, thuốc chống thải ghép và một lượng lớn corticosteroid sau phẫu thuật, điều này càng làm cản trở quá trình chuyển hóa glucose và khó kiểm soát chỉ số đường huyết. Do đó, khi bổ sung insulin, cần theo dõi chặt chẽ nồng độ glucose trong máu của bệnh nhân và điều chỉnh nồng độ glucose một cách hợp lý. Khi bắt đầu hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa hoặc thay đổi tốc độ truyền và lượng dung dịch dinh dưỡng đưa vào, điều dưỡng viên nên theo dõi chỉ số đường huyết đầu ngón tay và nồng độ glucose trong nước tiểu của bệnh nhân mỗi 2 ~ 4 giờ. Sau khi xác nhận quá trình chuyển hóa glucose ổn định, nên chuyển sang mỗi 4 ~ 6 giờ. Tốc độ truyền và lượng hormone đảo tụy đưa vào phải được điều chỉnh phù hợp kết hợp với sự thay đổi nồng độ glucose trong máu.
Tóm lại, việc triển khai FIS cho thấy việc hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa ở giai đoạn sớm sau phẫu thuật ung thư dạ dày là an toàn và khả thi, giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng của cơ thể, tăng cường hấp thu nhiệt và protein, cải thiện cân bằng nitơ âm tính, giảm mất nước và giảm các biến chứng sau phẫu thuật, đồng thời có tác dụng bảo vệ niêm mạc đường tiêu hóa của bệnh nhân tốt; thúc đẩy phục hồi chức năng đường ruột, rút ngắn thời gian nằm viện và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực y tế. Đây là một phương pháp được hầu hết bệnh nhân chấp nhận, đóng vai trò tích cực trong quá trình hồi phục và điều trị toàn diện cho bệnh nhân. Với nghiên cứu lâm sàng chuyên sâu về hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa sớm sau phẫu thuật ung thư dạ dày, kỹ năng điều dưỡng cũng không ngừng được nâng cao. Thông qua điều dưỡng tâm lý sau phẫu thuật, điều dưỡng ống thông dinh dưỡng và điều dưỡng biến chứng mục tiêu, khả năng xảy ra các biến chứng đường tiêu hóa, hít sặc, biến chứng chuyển hóa, xuất huyết tiêu hóa và tắc nghẽn cơ học được giảm đáng kể, tạo tiền đề thuận lợi cho việc phát huy những ưu điểm vốn có của hỗ trợ dinh dưỡng đường tiêu hóa.
Tác giả gốc: Ngô Ân Kiều
Thời gian đăng: 15-04-2022